Họ Vũ ở làng
Mộ Trạch (làng Tiến sĩ nổi tiếng nhất ở xứ Đông và trong nước
trước kia), nay thuộc xă Tân Hồng, huyện B́nh Giang, tỉnh Hải
Dương là một trong những ḍng họ lớn ở Việt Nam có Thuỷ tổ -
Thần tổ Vũ Hồn - Thành hoàng làng Mộ Trạch.
Theo gia phả, tộc phả
và thần phả ở Mộ Trạch, vào đời nhà Đường bên Trung Quốc (618 –
907), khoảng năm 800, có một quan chức tên là Vũ Huy người làng
Mă Kỳ, huyện Long Khê, phủ Thường Châu, tỉnh Phúc Kiến. Vợ là
Lưu Thị Phương. Hai ông bà đă nhiều tuổi, khoảng gần 60 tuổi,
vẫn chưa có con cái. Ông Vũ Huy là một nhà nho, do đó thường
than rằng: “Vàng núi thóc biển coi như cỏ rác, con hiếu,cháu
hiền quư hơn châu ngọc”. Sau đó, ông làm sớ dâng lên vua Đường
xin được nghĩ về làm trí sĩ. Vua Đường chuẩn cho, lại ban phát
cho xe ngựa, vàng bạc. Ông tạ ơn về quê sống cảnh an nhàn, đi du
ngoạn. Ông Vũ Huy vốn tinh thông khao địa lư phong thủy, do đó
trên đường đi du ngoạn về phương nam, đến đất Giao Châu khi ấy
là khu vực đất thuộc đồng bằng Bắc Bộ bây giờ.
Một hôm đi đến ấp
Mạn Nhuế thuộc huyện Thanh Lâm đất Hồng Châu sau này là tỉnh Hải
Dương, Vũ Huy thấy một kiểu đất đẹp ở khu cánh đồng mênh mông có
98 g̣ đất nhỏ bao quanh một g̣ cao và lớn, tựa như 98 ngôi sao
chầu về mặt trời (cưu83 thập bát tú triều dương ). Cái g̣ ấy tên
địa phương gọi là Đống Dờm. Theo thuyết địa lư – phong thủy nếu
mộ táng ở đây con cháu sẽ phát sinh khoa bảng. Công danh hiển
hách. Cụ Vũ huy quay trở về Phúc Kiến đưa hài cốt thân phụ sang
táng ở Đống Dờm, rồi làm nhà ở tạm để trông nom ngôi mộ
Ở làng Mạn Nhuế
khi ấy có một thôn nữ con nhà nề nếp, tính t́nh đoan trang phúc
hậu, chăm chỉ làm ăn lại có quư tướng sinh con quyền cao chức
trọng. Có lẽ do duyên trời đă định, nên gia đ́nh cô thôn nữ đă
chấp nhận lời cầu hôn của ông Vũ Huy, và ít lâu sau, hôn lễ đă
được cử hành. Bà là Nguyễn Thị Đức.
Hơn một năm
sau, bà có thai. Ông đưa bà về Phúc Kiến (thuộc đất mân Việt cũ)
Ngày 08 tháng
giêng năm giáp Thân(804) bà sinh con trai. Ông bà đặt tên con là
Vũ Hồn. Ngay từ thuở nhỏ, Vũ Hồn trông dáng dấp rất khôi ngô,
tuấn tú, rất chịu khó học hành và rất thông minh. Năm 12 tuổi
sức học đă làm cho các bậc đàn anh kính nể.
Năm 820, Vũ
Hồn đă đỗ kỳ thi Đ́nh khi mới 16 tuổi. Vua Đường rất khen ngợi
và cho là nhân tài, v́ ngoài thơ văn hay, sách lược giỏi, Vũ Hồn
c̣n tinh thông cả khoa thiên văn - Địa lư – Phong thủy. Vua ban
cho mũ áo để về vinh quy. Tuy c̣n trẻ tuổi nhưng có tài, v́ vậy
ít lâu sau vau Đường xuống chiếu bổ dụng Tả Thị Lang Bộ Lễ - một
chức quan khá trong triều đ́nh – v́ Bộ Lễ phụ trách lễ nghi,
cúng tế và thi cử trong nước. Được 2 năm thăng chức Đô Đài Ngự
Sử.
Năm 825 ( Ất
Tỵ) đời vua Đường Kính Tông, niên hiệu Bảo lịch thứ nhất, Vũ Hồn
được cử sang An Nam làm Thứ Sử Giao Châu.
Năm 841(Tân
Dậu) đời Đường Vũ Tôn, niên hiệu Hội Xướng thứ nhất, Vũ Hồn được
thăng chức kinh lược sứ thay Hàn Uớc. Trong thời gian ở An Nam,
Kinh lược sứ Vũ Hồn đă đi kinh lư và xem xét nhiều nơi, đồng
thời để tâm chủ ư việc t́m địa điểm để định cư sau này,v́ ngài
đă muốn chọn quê ngoại làm quê hương. Ngài đă nhiều lần về Mạn
Nhuế thăm mộ ông Nội ở Đống Dờm, sau đó đă đi thăm tất cả các
vùng lân cận,. Một lần Ngài đến trang Lạp Trạch huyện Đường An
thấy về phía tây thôn ấy có cách đồng hoang, cỏ lau rậm rạp, rải
rác có những g̣ đống tựa 5 con ngựa, 7 ngôi sao hoặc những ao mà
dưới đáy có doi đất nổi lên như h́nh quả bút, nghiên mực, quyển
sách… Theo kiến thức về địa lư- phong thủy là một kiểu đất đẹp,
kết. Ngài đă ghi chép lại để khi cần th́ sử dụng .
Trong thời
gian Ngài giữ chức Kinh lược sứ tại An Nam, th́ đất An Nam
thường không yên; do nhiều nguyên nhân trong đó chủ yếu là dân
An Nam thường hay nỗi dậy, do quân Nam Chiếu từ vùng Vân Nam hay
sang quấy nhiễu, do dân t́nh đói khổ sinh ra nhiều giặc cướp.
Các quan đô hộ trước đó, như Lư Nguyên Gia, Hàn Ước nhiều khi bỏ
chạy, do đó sau náy họ dời phủ thành từ đông quan( vùng ngoại
thành Hà Nội) về bờ sông Tô Lịch (Hà Nội ngày nay). Khu phủ
thành mới sẽ có đất đủ xây dựng hàng chục ngàn căn nhà với dân
số có thể phát triển đến cả trăm ngàn người (thành tổng binh).
Do công tŕnh
quá lớn, xây dựng tốn kém, mà quân lính th́ phải phục dịch xây
dựng rất vất vả, nên sinh ra thái độ tiêu cực, chống đối. Do đó,
Phủ thành mới, xây măi không xong.
Đến khi Kinh
lược sứ Vũ Hồn thay Hàn Ước th́ Ngài lại tiếp tục xây dựng công
tŕnh dỡ dang đó, kiến quân lính ngày đêm phải lao dịch cực nhọc
nên quân sĩ sinh ra bất mă, nỗi loại, đốt phá lầu thành, cướp
kho phủ. Ngài phải chạy về Quảng Châu. Sau đó,Giám quân đoàn Sĩ
Tắc dụ yên được binh sĩ làm loạn.
V́ Kinh lược sứ
Vũ Hồn không dẹp được hoặc không muốn dẹp cuộc nổi loạn của quân
sĩ mà bỏ về Trung Quốc nên vua Đường đă băi chức Kinh lược sứ
của Vũ Hồn và cử Bùi Nguyên Dụ sang thay.
Tuy Kinh lược
sứ Vũ Hồn bị thất bại trong nhiệm vụ đô hộ bên An Nam vào năm
843, nhưng v́ đă có nhiều công lao trong hơn 20 cống hiến cho
vua Đường, nên vua Đường Vũ Tôn đă không có h́nh phạt nghiêm
khắc, mà c̣n cho Vũ Hồn được hưởng đặc ân.
Một phần ngài
đă nản công danh, do không c̣n được trọng dụng, một phần nhà
Đường lúc đó có 2 phe: Lư Đức Du và Ngưu Tăng Nhu tranh giành
quyền lực, sát hại nhau, lấn áp cả vua, mà ngài th́ không theo
phe nào, nên xin với vua Đường cho hưởng đặc ân “ xin về trí
sĩ”.
Năm 843, đời Đường Vũ
Tôn, năm Hội Xướng thứ ba, vua Đường chuẩn y, ban cho nhiều vàng
bạc, và Ngài Vũ Hồn được nghĩ việc quan từ. Năm đó Ngài mới có
39 tuổi
Lúc đương thời
làm quan ở Giao Châu. Thủy Tổ Vũ Hồn đă có ư định sau này định
cư ở quê ngoại, nên đă chú ư t́m đất và đă t́m được vùng đất Lạp
Trạch, sau này là thôn Khả Mộ, rồi Mộ Trạch huyện Đường An như
trên đă nói
Sau khi Ngài
nghĩ việc quan, ngài liền đưa mẹ sang An Nam định cư( Theo Ngọc
Phả hiện lưu giữ ở đ́nh làng Mộ Trạch- Ngài nói: “ Người xưa
được một ngày nuôi cha mẹ, dẫu làm đến tam công cũng không sướng
bằng, ta nay c̣n có mẹ già, há nên tham giau sang mà không nghĩ
đến hiếu dưỡng hay sao?”
Ngài xây dựng
nhà cửa, dinh cơ cho gia đ́nh, rồi gọi dân cư ở rải rác các vùng
xung quanh về ở, giúp đỡ họ tiền bạc đễ xây dựng nhà cửa, mở
trường dạy học,lập nên một xóm nhỏ, đặt tên là Khả Mộ Trang ( có
nghĩa là ấp đáng mến), sau dân cư đông đúc thêm đổi tên thành
Khả Mộ thôn dần dần thành một thôn ấp có văn hoá, có lễ nghĩa và
làm ăn thịnh vượng.
Do công đức to
lớn của Ngài, và do dân làng Khả Mộ tôn kính Ngài như cha mẹ,
nên đă xin với Ngài rằng: “Lâu đài ngài hiện nay để ở, sau khi
Ngài mất, dân làng sẽ dùng làm miếu để thờ phụng Ngài”. Ngài ưng
cho, lại bảo rằng: “ Trang khu có hậu đạo với ta thí phải trọng
lời di chúc của ta, mà ngàn năm thờ phụng”. Ngài lại cho thêm
năm nén vàng, tậu ruộng ao để cung ứng cho việc tế tự, khỏi
phiền dân đóng góp.
Khi mẹ Ngài
qua đời( Cụ bà Nguyễn Thị Đức), ngài khóc than khôn xiết rồi
rước linh cữu mẹ lên táng ở xă Kiệt Đặc huyện Thanh Lâm- sau này
thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, cũng là vùng lân cận với
Mạn Nhuế, quê ngoại của Ngài, và cũng là nơi có mộ ông nội Ngài
6. Ngài đă ở quê
ngoại, trông nôm ngôi mộ mẹ ngài ở Kiệt Đặc trong thời gian 3
năm ṛng, đúng như luân lư và lễ giáo ngày xưa. Măn tang, ngài
trở về ấp khả Mộ sinh sống, dạy học cho trang làng.
Năm 853- Quư
Dậu – năm ngài vừa đúng 49 tuổi, một hôm vào ngày 03 tháng Chạp,
ngài đương ngồi dạy học, th́ thấy trong ḿnh khó chịu, rồi thiếp
đi, không bệnh ǵ mà hoá. Trang dân và gia thần bèn rước ngài
lên xứ Đồng Cạn, một g̣ đất nhỏ trong cánh đồng phía tây Bắc
thôn trang để an táng.
Bỗng nhiên,
trời đất tối sầm, mây mù vây kín. Giờ lâu, trời quang mây tạnh,
th́ đă kiến, mối đùn lấp thành một ngôi mộ lớn. Trang dân và gia
thần đều kinh hăi phăi báo lên quan, để tâu lên vua. Vua Đường
cho truy nguyên lúc b́nh nhật, sắc phong là một vị Phúc Thần.
Lại Phong:
Đương cảnh
Thần Hoàng
Lâu đài cư sĩ
Linh Ứng Đại
Vương
Chuẩn cho khu
thượng trang Khả Mộ lên kinh thành rước mĩ tự về miếu phụng thờ,
cắm đất ấy là Mả Thần dựng mộ chí, địa phương phải ngàn vạn năm
thờ cúng.
V́ vậy, đến
nay khu g̣ đất táng di hài ngài có tên Mả Thần và cánh đồng ấy
cũng gọi là cánh đồng Mả Thần. Mả Thần được tôn tạo và tu bổ vào
năm Quư Dậu (1993) và nay gọi là Thần Lăng. Tại Mả Thần7
chỉ có một ngôi mộ của ngài, dân ấp không một ai dám táng thân
nhân vào đấy để tỏ ḷng tôn kính ngài. Sau khi cụ Thuỷ Tổ qua
đời, đến lược cụ Bà cũng được dân làng và con cháu táng liền kế
bên, gọi là mộ song táng.
Dân làng lại
tôn ngài làm Thành Hoàng, mới đầu th́ thờ Ngài tại dinh cơ Ngài
để lại, vè sau làm đ́nh, miếu thờ cũng để ghi công Ngài vừa là
người khai ấp Khả Mộ, vừa là người dạy dỗ đem học vấn, lễ nghĩa
đến cho họ và con cháu các họ, giữa thôn dân với Ngài có ơn nặng
t́nh sâu
Xét công lao
to lớn của Ngài, và của các con cháu Ngài đă đóng góp các thành
tích đáng kể cho đất nước, do đó các triều đại phong kiến Việt
Nam đă lần lược gia phong cho Ngài làm Thần Vương tất cả 12 lần
với 12 đạo sắc như sau:
- Lần thứ
nhất: Đời Lê Hoàng (980 – 1009)
- Lần thứ
hai: triều vua Trần Nhân Tông, giặc Nguyên đang cướp nước ta,
Đức Trần Quốc Tuấn – Hưng Đạo Đại Vương phụng mệnh kỳ đảo bách
thần. Đức thần tổ có hiển âm phù. Khi đă dẹp xong giặc Nguyên:
Phàn Tiếp, Ô Mă Phi, vua Trần bèn phong:
Thông minh
tuệ trí hùng trác vĩ
Thượng đẳng
thần
- Lần thứ ba:
Đời vua Lê Thái Tổ dấy quân khởi nghĩa ở núi Lam Sơn, chống giặc
Minh, dẹp được Mộc Thạch. Liễu Thăng, mười năm dẹp yên được
thiên hạ lại phong
Tế thế an
dân, linh phù ngưng hữu
Thượng đẳng
thần
Tiếp theo đến
đời Lê Trịnh, lại có 5 đại sắc phong nữa.
Lần thứ tư:
Triều Tây Sơn - Nguyễn Huệ được phong 1 lần
- Lần thứ
năm: Triều Nguyễn Gia Long.
Được phong 2
lần
- Lần thứ sáu:
Đời vua Tự Đức, sắc phong “ Tối linh phù vận Đại Vương”
Từ hơn một năm
nay, dân làng Mộ Trạch vẫn thờ đức Thần Hoàng Vũ Hồn ở miếu và
đ́nh. Miếu và đ́nh đă được xây dựng thời thời xa xưa, và sau này
đă được tu tạo và xây lại nhiều lần.
Thời gian đầu,
miếu xây ở phía sau làng. Đến đời vua Lê Thần Tôn (1658- 1662)
miếu được về khu vực Long Nhăn “ Mắt Rồng” như hiện nay. Năm Quư
Dậu (1993) bên cạnh miếu đă xây thêm nhà khách để đón tiếp các
hậu duệ họ Vũ ở tất cả các mọi nơi về thâm đất Tổ
C̣n về đ́nh,
th́ đầu tiên đ́nh cũ xây ở phía tây đầu thôn, và đặc hướng tây.
Đến đời vua Lê
Hy Tôn và chúa Trịnh Căn (1697) đă được xây thành đ́nh lớn.
Giữa đ́nh thời
thần Hoàng Vũ Hồn, hai bên tả, hữu là hai khu thờ phụng của các
giáp (có 12 giáp ).
Năm 1740 –
1741 đời vua Lê Hiển Tôn và cuối đời chúa Trịnh Giang, đ́nh làng
bị chúa Trịnh triệt hạ. Nguyên nhân, do cuộc khởi nghĩa Trác
Oánh, người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, năm 22 tuổi đă độ
Hương cống Khoa thi hội năm Bính Thân, niên hiệu thịnh Đức 4,
toàn quốc chỉ có 6 người đỗ Tiến sĩ, riêng làng Mộ Trạch đă có 3
người. Tiến sĩ Vũ Trác Lạc( Vũ Trác Lạc là vai ông của Vũ Trác
Oánh ), Tiến sĩ Vũ Đăng Long và Tiến sĩ Vũ Công Lượng. Sau này,
khi vua Tự Đức – nhà Nguyễn - đọ được tư liệu về Đăng Khoa lạu
đă hạ bút khen :
“ Nhất gia bán
thiên hạ”
Có nghĩa là :
“Một nhà bằng nữa thiên hạ”
Vũ Trác Lạc đă
làm quan đến Tham Chính, và được vua Lê phong Tước Nam.
Do thấu hiểu
sự mục tàn của vua Lê – chúa Trịnh và sự đói khát. Thống khổ của
nhân dân khắp địa phương thời bấy giờ, nên Vũ Trác Oánh đă lănh
đạo nông dân nổi dậy. Vũ Trác oánh kéo cờ khởi nghĩa với tên
xưng Minh Nghĩa Công đă phối hợp cùng Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ (ở
Ninh Xá - Hải Dương) chống lại triều đ́nh. V́ sức yếu và tổ chức
chưa tốt, chưa tạo được quần chúng nhân dân một sự giác ngộ bền
vững, do đó sau 3 năm (1739 – 1741 ) đă bị quân đội nhà Trịnh
dẹp tan. Nguyễn Tuyển tử trận. Nguyễn Cừ bị bắt rồi bị xử tử,
c̣n Vũ Trác Oánh mất tích, không biết sau này chạy về đâu. chính
v́ vậy, mà đ́nh làng Mộ Trạch bị chúa Trịnh cho triệt hạ vào năm
1741.
16 năm sau,
vào năm 1757 cũng đời vua Lê Hiển Tông chúa Trịnh Doanh, bà Nhữ
Thị Thuận và chồng là Vũ Phương Đẩu đă xin phép dân làngcho được
lại ngôi đ́nh đă bị phá. Bà đă bỏ tiền riêng của gia đ́nh, hơn
ba ngàn quan tiền để xây dựng lại đ́nh làng làm xong, bà không
nhận tiền của dân làng đóng góp. Bà lại c̣n công đức thêm 10 mẫu
ruộng để lấy hoa lợi làm lễ cúng tế hằng năm. V́ vậy, dân làng
rất kính trọng Bà. Khi Bà mất, dân làng đă phong Bà làm Hậu Thần.
Ở đ́nh làng hiện nay có bia đá ghi công đức Bà, đặt ở bên cạnh
Hậu Cung.
Đ́nh làng khi
đó được xây dựng thành một quần thể kiến trúc gồm : Đ́nh ngoài,
đ́nh trong, hậu cung và sân đ́nh với các cột đồng trụ bao quanh.
Đ́nh làng lại
bị giặc Pháp phá hủy trong thời gian kháng chiến chống Pháp 1946
– 1954. Giặc Pháp đă phá dỡ đ́nh ngoài, lấy gạch để xây đồn bốt.
Hiện nay chỉ c̣n lại d0́nh trong và Hậu Cung. Đến năm 1991, Đ́nh
trong đă được dân làng tạm tu bổ lại. Hiện nay đ́nh làng đă được
nhà nước Việc Nam xếp hạng là “ di tích lịch sử văn hoá Quốc Gia”,
cần được duy tŕ bảo tồn – ( quyết định số 154 ngày 15/01/1991
của bộ văn hoá nước CHXHCN Việt Nam.
Cuối năm 1993
- Tiến sĩ vật lư Vũ Ngọc Thịnh - Việt Kiều ở Nhật Bản cùng gia
đ́nh ở TP. Hồ CHí Minh (gốc quê ở làng Mộ Trạch) đă công đức xây
lại Thần Lăng và khánh thành vào ngày 8 tháng giêng năm Quư Dậu
(1993). Cùng ngày, cũng khánh thành nhà khách Miếu thờ thần tổ
do công đức của gia đ́nh kỹ sư Vũ Mạnh Hà ở TP. Hà Nội. Kỹ sư Vũ
Mạnh Hà là hậu duệ các cụ tổ Vũ Phong - trạng vật – và Vũ Duy
Chí tể tướng đều có gốc họ Vũ làng Mộ Trạch thuộc Tiền Ngũ chi
và Hậu Ngũ chi. Cụ tể tướng Vũ Duy Chí hiện c̣n nhà thờ Quang
Chấn Đường ở làng Mộ Trạch.
KS. Vũ Mạnh Hà